1. Niềm tin về con đường càng đi càng sáng
Những năm đầu thế kỷ XX, khi phong trào yêu nước Việt Nam diễn ra sổi nổi, rộng khắp nhưng rơi bế tắc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định dứt khoát con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng khởi xướng; sự phát triển bước đầu của liên minh công - nông cùng các cuộc đấu tranh mạnh mẽ, mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ tĩnh đã nhen nhóm lên những tia hy vọng về tương lai tươi sáng. Kiên trì thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đứng lên đánh đuổi phát xít Nhật, giành lấy chính quyền, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945, mở ra chương mới trên con đường phát triển của dân tộc Việt Nam.
Sau năm 1945, đương đầu với thế lực thực dân, đế quốc hùng mạnh; phải giải quyết những nhiệm vụ cách mạng đầy khó khăn và mới mẻ, trong bối cảnh thế giới đầy phức tạp bởi sự tính toán lợi ích của các nước lớn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành những thắng lợi liên tiếp trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, giành độc lập, hòa bình và thống nhất hoàn toàn.
Đương đầu với những thách thức chưa từng có trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, sự xoay chuyển của tình hình thế giới và xu thế toàn cầu hóa trong những năm 80, 90 của thế kỷ XX; đứng trước sự lựa chọn “Đổi mới hay là chết”, Đảng ta đã lựa chọn đổi mới, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, đói nghèo. Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) lần đầu tiên phác họa mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm 06 đặc trưng và xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”[1].
Qua hơn 35 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta “từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”[2], từ nhận thức tổng quát về mô hình, mục tiêu, tính chất, bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến những nhận thức cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng.
Những đổi mới mạnh mẽ trong nhận thức, tư duy lý luận của Đảng đã mở đường cho việc khơi thông các nguồn lực, khai phóng mọi tiềm năng sáng tạo cho công cuộc kiến thiết đất nước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến nay, diện mạo kinh tế - xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân đã có những chuyển biến sâu sắc và tích cực. Quy mô kinh tế đứng thứ tư trong khối ASEAN, thu nhập bình quân tăng khoảng 17 lần. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%. Liên Hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ[3].
Để sự nghiệp cách mạng luôn tiến lên phía trước, Đảng kiên quyết gạt bỏ mọi chướng ngại vật, đấu tranh không khoan nhượng với tham nhũng, tiêu cực; ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, "tự chuyển hóa”, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ. Đảng đề ra đường lối quốc phòng, an ninh, đối ngoại đúng đắn nhằm chống lại mọi sự xâm hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa XIII diễn ra vào tháng 5/2023 đã khẳng định, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã được triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, đất nước vẫn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam được đánh giá là một điểm sáng “trong bức tranh xám màu” của kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2021 đạt 2,56%, trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng âm; năm 2022 đạt 8,02%, cao hơn so với kế hoạch 6 - 6,5% và năm 2023 dự báo tăng trưởng kinh tế đạt trên 5,2%, dù thấp hơn so với chỉ tiêu nhưng vẫn ở mức tăng trưởng gần như cao nhất trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đó là cơ sở quan trọng để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
2. Công tác giáo dục lý luận chính trị - góp phần nuôi dưỡng niềm tin
Đảng ta luôn xác định, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng có được không chỉ bởi Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, mà còn bởi Đảng luôn được nhân dân yêu mến, tin tưởng. Để xứng đáng với niềm tin ấy, Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ, sáng suốt hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn để phát triển toàn diện đất nước; phải nâng cao uy tín chính trị, đạo đức cách mạng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”. Những đòi hỏi ấy phải thấm sâu vào nhận thức của mỗi đảng viên, trở thành quyết tâm và hành động cụ thể trên từng vị trí công tác.
Công tác giáo dục lý luận chính trị với tư cách là một bộ phận trong công tác tư tưởng của Đảng có vai trò quan trọng và khả năng to lớn trong việc bồi đắp niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong những năm qua, công tác giáo dục lý luận chính trị đã có sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương thức theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; góp phần tạo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, đồng thuận trong xã hội.
Tuy nhiên, sự nghiệp đổi mới đất nước và yêu cầu công tác xây dựng Đảng hiện nay đang đặt ra cho công tác giáo dục lý luận chính trị những nhiệm vụ mới. Một mặt, phải đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng cán bộ theo tinh thần nghị quyết số 26-NQ/TW về công tác cán bộ. Mặt khác, trước tình trạng “Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, công tác giáo dục lý luận chính trị phải góp phần tạo sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và những hậu quả gây ra; trang bị hệ thống lý luận, kiến thức trên các lĩnh vực để cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh và khả năng tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Để phát huy được vai trò yêu cầu nêu trên, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, xác định đúng vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục lý luận chính trị.
Giáo dục lý luận chính trị cung cấp những tri thức lý luận cơ bản và toàn diện về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, chính sách, pháp luật của nhà nước; trên cơ sở đó vừa trang bị cho người học - cán bộ, đảng viên các kỹ năng công tác đồng thời định hướng tư tưởng chính trị, tạo sự thống nhất nhận thức trong cán bộ, đảng viên. Công tác giáo lý luận chính trị được tổ chức hiệu quả sẽ giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm vững và tổ chức thực hiện đúng đắn, hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật chủa nhà nước, ngược lại sẽ dẫn đến những sai lầm, khuyết điểm. Có thể thấy, công tác giáo dục lý luận chính trị không chỉ góp phần vào xây dựng đội ngũ cán bộ, mà còn gián tiếp tác động vào những thành tựu của đời sống kinh tế - xã hội đất nước.
Hiện nay, công tác giáo dục lý luận chính trị còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Thông qua công tác dục lý luận chính trị giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao bản lĩnh chính trị; chủ động tham gia đấu tranh phản bác có hiệu quả các luận điệu tuyên truyền sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc hệ tư tưởng của Đảng, những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Thứ hai, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị.
Giáo dục lý luận chính trị cần đổi mới về nội dung theo hướng gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với nhu cầu và trình độ của người học. Việc xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần tăng cường phần nội dung về tình hình, nhiệm vụ cụ thể của ngành, địa phương; tăng phần kiến thức về kỹ năng giải quyết các vấn đề thực tế trong các lĩnh vực công tác. Phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính độc lập, tích cực của người học, quán triệt phương châm “học đi đôi với hành”.
Thứ ba, phát huy vai trò “truyền lửa” của giảng viên.
Giáo dục lý luận chính trị không chỉ là quá trình giảng viên tác động vào người học thông qua trình bày, giải thích các khái niệm, quy luật, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của của Nhà nước nhằm giúp người học nâng cao tri thức mà còn tá quá trình tác động nhằm giúp nười học nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực hoạt động thực tiễn, hướng dẫn vận dụng tri thức vào thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, giảng viên phải đóng vai trò là người đánh thức năng lực, khơi dậy nhiệt thành cách mạng, cổ vũ, động viên người học hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, hết mình cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt, cần khơi dậy ở cán bộ, đảng viên tinh thần “dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đương đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách; dám hành động vì lợi ích chung”.
Công cuộc đổi mới đất nước đang đứng trước thời cơ, vận hội hội lớn, đồng thời phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ. Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải nêu cao tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng phải đi đôi với nâng cao sức chiến đấu, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng. Từ đó, cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò nâng cao nhận thức lý luận, củng cố niềm tin, lý tưởng cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
ThS. Nguyễn Thị Hồng Hường
Khoa Xây dựng Đảng
Tài liệu tham khảo
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, H.1991, tr.21.
[2] Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2022, tr.23.
[3] Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2022, tr 31,32.