Trong thời gian qua, lợi dụng sự kiện Việt Nam khởi động “Đề án Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”, trên không gian mạng và dư luận xã hội đã lan truyền những luận điệu vô căn cứ, xuyên tạc phê phán thể chế chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Việt Nam.
Các thế lực thù địch cho rằng việc xây dựng Đề án là viển vông, không có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hình thức pháp luật này không tồn tại trên thực tế mà chỉ là ảo tưởng, chỉ có nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa. Họ cố tình bóp méo khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa, cho rằng pháp chế xã hội chủ nghĩa là công cụ mà Đảng dùng để lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối nhà nước, xuyên tạc thể chế chính trị ở Việt Nam chỉ có Đảng trị chứ không có tính pháp trị. Cho rằng chỉ có nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa với chế định tam quyền phân lập chứ không có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với chế định tam quyền phân công và cho rằng tam quyền phân công ở Việt Nam chỉ là phối hợp, phân công trong nội bộ, từ đó phủ nhận không có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những luận điệu trên nhằm phủ nhận sự tồn tại, tính ưu việt của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo nhà nước của Đảng Cộng sản Việt Nam với khẳng định sai trái rằng ở Việt Nam chỉ có một nhà nước yếu và một đảng chính trị quá mạnh.
Tung ra các luận điệu sai trái công kích bản chất, vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những mũi nhọn mà các thế lực thù địch, phần tử cơ hội tập trung chống phá trong suốt quá trình Việt Nam xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vậy bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là gì? Một đảng lãnh đạo có làm nhà nước yếu đi hay không? Tại sao Việt Nam chủ trương tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa?
Trước hết có thể thấy nhà nước pháp quyền là một giá trị chung của nhân loại tiến bộ, đề cao pháp luật thể hiện khát vọng ước muốn của con người về một xã hội dân chủ và bình đẳng. Sự ra đời của mô hình nhà nước pháp quyền đã có tác động tích cực, to lớn không thể phủ nhận đối với đời sống xã hội con người. Nhiều quốc gia tùy theo hoàn cảnh cụ thể đã kế thừa, vận dụng để xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền ở những góc độ khác nhau. Mô hình nhà nước pháp quyền theo hình thức đa nguyên hay nhất nguyên phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, điều kiện kinh tế xã hội để quốc gia đó quyết định lựa chọn cho mình một mô hình phù hợp. Vấn đề kiểm soát quyền lực – yếu tố quan trọng của nhà nước pháp quyền cũng được đặt ra cho phù hợp với thể chế chính trị của quốc gia đó.
Ở Việt Nam, từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã thể hiện đầy đủ những yếu tố cốt lõi của Nhà nước pháp quyền đó là thừa nhận quyền lực thuộc về Nhân dân, sự ràng buộc quyền lực nhà nước, sự kiểm soát quyền lực nhà nước, sự thượng tôn pháp luật… Những tư tưởng này cũng được thể hiện xuyên suốt trong các bản Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, tuy nhiên bước ngoặt mang tính thành tựu được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992. Lần đầu tiên thuật ngữ “quyền con người” được đề cập trong Hiến pháp năm 1992, đến Hiến pháp năm 2013 từ một điều luật trong Hiến pháp năm 1992 nâng lên thành một chương “Quyền con người và quyền công dân” đã đặt quyền con người, quyền công dân ở vị thế trang trọng hơn và phù hợp với luật pháp quốc tế. Thực tế cho thấy ở nước ta, dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được nhận thức đúng đắn hơn và phát huy mạnh mẽ hơn, coi đây là vấn đề cốt lõi của đổi mới hệ thống chính trị. Về kinh tế, đó là quyền được tự do sản xuất kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm; quyền sở hữu hợp pháp tài sản và quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ; mọi tiềm năng, tính sáng tạo của các tầng lớp Nhân dân được phát huy. Về chính trị, đó là quyền dân chủ trong bầu cử, ứng cử, đề cử, trong thảo luận đóng góp ý kiến xây dựng các dự án luật; là sinh hoạt dân chủ trong các cơ quan dân cử, các đoàn thể xã hội trên các phương tiện thông tin đại chúng; là quyền con người, quyền công dân ngày càng được bảo hộ, bảo đảm tốt hơn. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành ở nước ta là Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ như vậy dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó nhiều thiết chế được lập ra để đảm bảo dân chủ từ Trung ương tới cơ sở. Theo báo cáo chỉ số hạnh phúc của Liên Hợp Quốc năm 2024, Việt Nam tăng 11 bậc so với chỉ số xếp hạng năm 2023, những năm gần đây Việt Nam liên tục cải thiện thứ hạng về chỉ số này. Cần lưu ý rằng, trong các chỉ tiêu đánh giá về hạnh phúc của con người bao gồm cả tiêu chí người dân được tự do đưa ra các quyết định quan trọng trong cuộc sống. Xét đến cùng, mọi giá trị về dân chủ cho dù ở xã hội có thể chế chính trị nào thì cũng phải hướng tới hạnh phúc của người dân mà nhà nước đó, thể chế chính trị đó mang lại cho họ. Trên thực tế, đời sống của người dân cũng như sự phát triển mạnh mẽ của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là sự cảm nhận của đông đảo người dân ở mọi giai tầng trong xã hội về đời sống chính trị, kinh tế, tinh thần ở Việt Nam ở thời điểm hiện tại đã phủ nhận hoàn toàn những luận điệu sai trái về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là quy luật tất yếu của Nhà nước Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Đây cũng là chủ trương nhất quán, đúng đắn của Đảng và Nhà nước, là nguyện vọng và sự lựa chọn của Nhân dân Việt Nam. Các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận giá trị Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ không thể làm lay chuyển niềm tin, ý chí và con đường mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã lựa chọn.
ThS. Trần Thu Giang - Khoa Nhà nước & pháp luật