1. Bối cảnh chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo lý luận chính trị
     Chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu trên phạm vi toàn cầu, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Đối với hệ thống các trường chính trị tỉnh, thành phố, chuyển đổi số không chỉ là yêu cầu khách quan của thời đại mà còn là nhiệm vụ chính trị trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, quản lý, đào tạo và nghiên cứu khoa học lý luận chính trị. 
     Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật nhằm xây dựng nền tảng số, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện. Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế – xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” tạo cơ sở pháp lý – định hướng chiến lược cho việc chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực, trong đó có giáo dục, đào tạo, quản lý nhân lực. Việc thực hiện chủ trương “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” là điểm rất phù hợp để lồng ghép nội dung đào tạo giảng viên số, đổi mới sư phạm số. Ngày 02/4/2025, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Lễ phát động phong trào “Bình dân học vụ số” và Hội nghị về chuyển đổi số trong hoạt động của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bằng hình thức trực tiếp và kết nối trực tuyến với điểm cầu các tỉnh, thành trên toàn quốc. Trên cơ sở đó, các trường chính trị địa phương – trong đó có Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ - đang tích cực triển khai nhiều giải pháp: xây dựng hệ thống quản lý đào tạo trực tuyến (LMS), thư viện số, lớp học thông minh, đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại, tương tác và lấy người học làm trung tâm để phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số. 
      Giảng viên là nhân tố trung tâm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ – là cầu nối giữa đường lối, chủ trương của Đảng với thực tiễn. Trong bối cảnh chuyển đổi số, giảng viên không chỉ cần vững vàng về lý luận chính trị, có bản lĩnh tư tưởng và phẩm chất đạo đức, mà còn phải thành thạo kỹ năng số, ứng dụng công nghệ trong giảng dạy, nghiên cứu và quản lý học viên. Môi trường học tập số (e-learning, blended learning, học liệu mở, trí tuệ nhân tạo hỗ trợ giảng dạy...) đòi hỏi giảng viên phải linh hoạt thích ứng, đổi mới tư duy và phương pháp giảng dạy. Năng lực giảng dạy hiện đại không chỉ là “dạy đúng, dạy hay” mà còn là “dạy thông minh, dạy sáng tạo, dạy thích ứng”.
     2. Thực trạng năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ
      Đội ngũ giảng viên của Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ đã có nhiều bước phát triển tích cực: đa số đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ; có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với nghề, tích cực nghiên cứu khoa học, chủ động học tập và bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận - chuyên môn. Cụ thể
       * Về trình độ chuyên môn, lý luận và phẩm chất nghề nghiệp
      Cơ cấu đội ngũ tương đối ổn định, đa số giảng viên đạt chuẩn hoặc trên chuẩn theo quy định; nhiều đồng chí đã hoàn thành chương trình cao cấp lý luận chính trị, thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành phù hợp, trong đó: tiến sỹ là 06 đồng chí, (07 đồng chí hiện đang nghiên cứu sinh); thạc sỹ là 70 đồng chí, một số đồng chí có 2 -3 bằng đại học; trình độ cử nhân, cao cấp lý luận có 63 đồng chí, đội ngũ giảng viên có 76 (01 giảng viên cao cấp, 55 giảng viên chính).
     Phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp vững vàng, thể hiện tinh thần trách nhiệm, tận tâm với công việc, luôn gương mẫu trong học tập và giảng dạy. Nhiều giảng viên đã tham gia nghiên cứu khoa học, viết bài đăng tạp chí, tham luận tại hội thảo cấp tỉnh, cấp khu vực và toàn quốc, thể hiện năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết thực tiễn. Tuy nhiên, một số ít giảng viên còn thiếu kinh nghiệm sư phạm, kỹ năng xử lý tình huống thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị; chưa có nhiều sản phẩm nghiên cứu có chiều sâu hoặc mang tính ứng dụng cao.
      * Về năng lực ứng dụng công nghệ và kỹ năng số
     Đa số giảng viên đã bước đầu làm quen với các phần mềm và nền tảng dạy học trực tuyến như Zoom, Google Meet, MS Teams, Moodle…Một số giảng viên đã biết ứng dụng Canva, PowerPoint nâng cao, Mindmap, Kahoot để tạo bài giảng sinh động hơn, có tính tương tác cao.
     Tuy nhiên, năng lực thiết kế học liệu điện tử, quay dựng video bài giảng e-learning, và quản lý lớp học trực tuyến vẫn còn hạn chế; chưa có nhiều bài giảng được số hóa chuẩn định dạng SCORM hoặc chuẩn Học viện. Việc sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và các công cụ hỗ trợ sáng tạo nội dung như ChatGPT, Copilot, hoặc phân tích dữ liệu học tập bằng Power BI còn mới mẻ; giảng viên chủ yếu dùng ở mức độ cơ bản. Tỷ lệ giảng viên có kỹ năng số thành thạo còn mới ở mức “sử dụng cơ bản”, chưa chủ động sáng tạo, tích hợp công nghệ trong toàn bộ quy trình dạy học.
      * Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
      Về cơ bản, giảng viên vẫn giảng dạy theo phương pháp truyền thống, chú trọng truyền thụ kiến thức, thuyết trình một chiều, ít sử dụng tình huống mô phỏng hoặc học qua trải nghiệm.
     Một số giảng viên tiên phong đã thử nghiệm các phương pháp dạy học tích cực như thảo luận nhóm, seminar, tình huống, bản đồ tư duy… song việc triển khai còn mang tính cá nhân, chưa đồng đều giữa các khoa.
      Công tác đánh giá học viên vẫn chủ yếu dựa trên bài kiểm tra, bài thu hoạch, chưa có nhiều hình thức đánh giá trực tuyến, đánh giá năng lực thực hành hoặc đánh giá qua sản phẩm học tập số.
      Mức độ tương tác giữa giảng viên và học viên trong môi trường trực tuyến còn hạn chế, do hạ tầng công nghệ, đường truyền mạng hoặc kỹ năng quản trị lớp học số chưa đồng bộ.
      * Về học liệu, tài nguyên và môi trường dạy học số
      Nguồn học liệu số do giảng viên tự biên soạn còn ít, chủ yếu ở dạng file PowerPoint, PDF hoặc video ngắn; chưa có nhiều học liệu đạt chuẩn e-learning hoặc có tính tương tác cao.
     Cơ sở vật chất, thiết bị hỗ trợ dạy học số (phòng studio, bảng tương tác, thiết bị ghi hình, âm thanh) chưa được đầu tư đồng bộ, ảnh hưởng tới khả năng triển khai bài giảng trực tuyến chất lượng cao.
      * Về nghiên cứu khoa học và hợp tác học thuật trong môi trường số
Nhiều giảng viên tích cực tham gia nghiên cứu đề tài khoa học cấp trường, cấp tỉnh; tuy nhiên, số lượng công trình tập trung vào chủ đề chuyển đổi số trong giảng dạy lý luận chính trị còn hạn chế. Hoạt động trao đổi học thuật trực tuyến, hội thảo online, diễn đàn chuyên môn số chưa được duy trì thường xuyên; thiếu cơ chế khuyến khích và hỗ trợ kinh phí cho giảng viên nghiên cứu về giáo dục số. Kênh hợp tác, liên kết với các trường chính trị bạn trong chia sẻ học liệu, phương pháp dạy học số chưa hình thành bền vững.
       3. Giải pháp nâng cao năng lực giảng dạy của giảng viên trong bối cảnh chuyển đổi số
       Nâng cao nhận thức và bồi dưỡng tư duy số
      Trước hết, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt trong toàn thể đội ngũ giảng viên về ý nghĩa, mục tiêu và tầm quan trọng của chuyển đổi số đối với sự phát triển của nhà trường nói riêng và nền giáo dục quốc gia nói chung.
     Tổ chức các khóa tập huấn, hội thảo, chuyên đề, tọa đàm về chuyển đổi số trong giáo dục lý luận chính trị, giúp giảng viên hiểu sâu bản chất, phạm vi và yêu cầu của việc chuyển đổi số. Khuyến khích giảng viên tự học, tự nghiên cứu thông qua các khóa MOOC, học liệu mở về công nghệ giáo dục, năng lực số, trí tuệ nhân tạo và quản lý tri thức. Xây dựng “văn hóa số trong giảng dạy” – tức là mỗi giảng viên cần hình thành tư duy chủ động, sáng tạo, dám đổi mới, coi chuyển đổi số không phải là nhiệm vụ ngắn hạn hay phong trào, mà là chiến lược nghề nghiệp lâu dài.
         Phát triển kỹ năng số và ứng dụng công nghệ trong giảng dạy
      Đây là giải pháp then chốt. Cần triển khai chương trình bồi dưỡng kỹ năng số cho giảng viên theo hướng chuẩn hóa và thực hành như: Kỹ năng sử dụng công cụ dạy học số (Canva, PowerPoint nâng cao, Prezi, Genially, Mindmap, Mentimeter, Kahoot…); Kỹ năng sản xuất học liệu điện tử (thiết kế video bài giảng, đồ họa hóa nội dung, dựng e-learning bằng phần mềm như Camtasia, OBS Studio, hoặc Articulate Storyline); Kỹ năng khai thác nền tảng học tập trực tuyến (LMS): Moodle, Google Classroom, MS Teams, Zoom…; quản lý bài giảng, kiểm tra – đánh giá, phản hồi học viên; Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong giảng dạy (sử dụng ChatGPT, Copilot, hoặc Gemini để hỗ trợ soạn giáo án, tạo câu hỏi trắc nghiệm, gợi ý kịch bản giảng, sinh học liệu minh họa). Cùng với đó, nhà trường cần đầu tư cơ sở vật chất và hạ tầng số như phòng thu bài giảng, thiết bị trình chiếu thông minh, bảng tương tác, hệ thống camera – micro chuẩn hóa để hỗ trợ giảng viên trong quá trình chuyển đổi số.
       Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, phương pháp dạy học truyền thống cần được chuyển sang hướng lấy người học làm trung tâm, tăng tính trải nghiệm và tương tác như: Áp dụng phương pháp dạy học tích cực (nêu vấn đề, tình huống chính trị – hành chính, phân tích tình huống thực tế ở địa phương để học viên vận dụng kiến thức lý luận vào thực tiễn); Kết hợp mô phỏng và trò chơi chính trị (simulation, gamification): mô phỏng họp chi bộ, xử lý tình huống dân vận, phát biểu nghị quyết… nhằm tăng tính thực hành; Học qua dự án (project-based learning): yêu cầu học viên nhóm xây dựng kế hoạch truyền thông, dự thảo nghị quyết hoặc đề xuất chính sách mô phỏng, trình bày trên nền tảng số; Đa dạng hóa hình thức trình bày (tích hợp infographic, bản đồ tư duy (mind map), video clip tư liệu, phỏng vấn, số liệu thống kê động)… giúp bài giảng hấp dẫn, sinh động, dễ hiểu. Bên cạnh đó, cần ứng dụng đánh giá linh hoạt, kết hợp giữa đánh giá trực tuyến và trực tiếp, giữa định tính (thảo luận, phản biện) và định lượng (bài trắc nghiệm, khảo sát trực tuyến).
       Xây dựng và chia sẻ nguồn học liệu số
     Phát triển thư viện điện tử, kho học liệu số hóa gồm giáo trình, tài liệu tham khảo, video bài giảng, các bài nghiên cứu khoa học và tình huống thực tiễn.
      Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu mở nội bộ – nơi giảng viên có thể tải lên, chỉnh sửa, chia sẻ và cập nhật bài giảng, đề cương, ngân hàng câu hỏi.
      Khuyến khích “văn hóa chia sẻ tri thức” giữa các khoa, bộ môn, đặc biệt là chia sẻ học liệu về kỹ năng số và đổi mới phương pháp giảng dạy. Nhà trường cần chuẩn hóa quy trình tạo, lưu trữ và công nhận học liệu số, bảo đảm tính khoa học, bản quyền và an toàn thông tin. Ngoài ra, có thể liên kết kho học liệu với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hoặc các trường chính trị khác để hình thành “mạng học liệu mở ngành chính trị học” phục vụ dùng chung toàn hệ thống.
        Tăng cường hợp tác học thuật và nghiên cứu khoa học
       Đẩy mạnh hợp tác giữa Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường chính trị khu vực và địa phương khác để trao đổi học thuật, chia sẻ mô hình chuyển đổi số thành công, tổ chức các diễn đàn chuyên môn, các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu có thế mạnh về công nghệ thông tin, truyền thông, sư phạm kỹ thuật, nhằm học hỏi phương pháp, công cụ mới. Đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về chuyển đổi số trong giảng dạy lý luận chính trị, như: Đề tài về ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong đánh giá năng lực học viên; Nghiên cứu mô hình trường chính trị thông minh (Smart Political School); Phân tích hiệu quả của phương pháp học tập kết hợp (blended learning) trong bồi dưỡng cán bộ. Kết quả nghiên cứu cần được ứng dụng trực tiếp vào thực tiễn giảng dạy, tránh tình trạng lý thuyết xa rời thực hành.
         Hoàn thiện cơ chế khuyến khích và đánh giá
        Để chuyển đổi số đạt hiệu quả, cần có hệ thống chính sách, cơ chế ghi nhận và động viên phù hợp, xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá năng lực giảng viên số gồm 5 nhóm năng lực: (1) Năng lực sử dụng công nghệ dạy học; (2) Năng lực thiết kế học  liệu số; (3) Năng lực quản lý lớp học trực tuyến; (4) Năng lực đánh giá học viên trên nền tảng số; (5) Năng lực đổi mới sáng tạo và nghiên cứu sư phạm số.
        Đưa tiêu chí chuyển đổi số vào quy trình xét thi đua, khen thưởng, đánh giá xếp loại giảng viên, nâng ngạch và bổ nhiệm cán bộ quản lý. Tôn vinh và nhân rộng điển hình tiên tiến: tổ chức “Hội thi giảng viên số sáng tạo”, “Bài giảng điện tử tiêu biểu” để khuyến khích đổi mới.Có cơ chế hỗ trợ kinh phí sản xuất học liệu số, công nhận giờ giảng cho bài giảng e-learning, giảm định mức giảng dạy cho giảng viên tham gia số hóa nội dung. Đồng thời đánh giá định kỳ năng lực số của giảng viên, từ đó xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, hỗ trợ phù hợp theo từng nhóm đối tượng.
       Chuyển đổi số mở ra thời cơ và thách thức mới cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ. Việc nâng cao năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên không chỉ góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Trường Chính trị đạt chuẩn, mà còn là giải pháp chiến lược bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Đây không chỉ là vấn đề kỹ thuật - công nghệ, mà còn thể hiện bản lĩnh chính trị, năng lực đổi mới và tinh thần trách nhiệm của người giảng viên chính trị Phú Thọ - góp phần vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phát triển đội ngũ cán bộ có tư duy số, bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn hội nhập và phát triển đất nước.
           TÀI LIỆU THAM KHẢO
      1. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
       2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Kế hoạch chuyển đổi số giai đoạn 2021–2025, định hướng đến năm 2030.
        3. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
       4. Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ (2024), Báo cáo tổng kết công tác đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học năm 2023.
         5. Nguyễn Thị Minh (2023), “Phát triển năng lực số cho giảng viên lý luận chính trị trong các trường chính trị khu vực miền Bắc”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4(2023).
        6. Phạm Văn Hùng (2022), “Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy lý luận chính trị ở cấp tỉnh”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 8(2022).
     7. UNESCO (2022), Digital Transformation and Higher Education: Teaching, Learning, and Institutional Change.
         8. World Bank (2023), Digital Skills for the Future Workforce.
                                                     
                                                    
                                                    
                                                        ThS. Vi Thị Lan Phương - Giảng viên khoa Nhà nước và pháp luật